Những câu hỏi thường gặp về việc đăng ký sáng chế tại Việt Nam

Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam (Cục SHTT) là cơ quan chịu trách nhiệm tiếp nhận và thẩm định các đơn đăng ký sáng chế. Quy trình đăng ký sáng chế bắt đầu khi người đăng ký nộp đơn đăng ký sáng chế tới Cục SHTT và kết thúc khi nhận được bằng sáng chế, nếu sáng chế đáp ứng đủ các điều kiện để được bảo hộ.

Để được cấp bằng độc quyền sáng chế tại Việt Nam, người nộp đơn phải nộp đơn xin cấp Bằng độc quyền sáng chế (đơn nộp cho Sáng chế và Giải pháp hữu ích là riêng biệt), trực tiếp hoặc qua đường bưu điện đến Cục SHTT hoặc các văn phòng chi nhánh của Cục SHTT tại Thành phố Hồ Chí Minh hoặc Đà Nẵng.

Ngoài ra, người nộp đơn nước ngoài cũng có thể nhận được quyền sở hữu sáng chế tại Việt Nam bằng cách nộp đơn quốc tế có chỉ định hoặc lựa chọn Việt Nam thông qua hệ thống PCT. Sau đó, người nộp đơn phải thực hiện các thủ tục đăng ký sáng chế theo quy định của PCT tại Cục SHTT trong thời hạn 31 tháng kể từ ngày nộp đơn quốc tế hoặc kể từ ngày ưu tiên, nếu trong đơn có yêu cầu hưởng quyền ưu tiên.

Tổ chức, cá nhân Việt Nam, cá nhân nước ngoài thường trú tại Việt Nam và tổ chức, cá nhân nước ngoài có cơ sở sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam có thể nộp đơn đăng ký sáng chế trực tiếp hoặc thông qua đại diện hợp pháp tại Việt Nam.

Cá nhân nước ngoài không thường trú tại Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài không có cơ sở sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam có thể nộp đơn đăng ký sáng chế thông qua đại diện hợp pháp tại Việt Nam.

Việt Nam áp dụng hệ thống nộp đơn đầu tiên, tức là khi hai hoặc nhiều đơn được nộp bởi nhiều bên khác nhau để đăng ký cùng một sáng chế, bằng độc quyền chỉ được cấp cho đơn hợp lệ có ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn sớm nhất trong số các đơn đáp ứng đủ các điều kiện quy định; trong trường hợp có từ hai đơn trở lên đáp ứng tất cả các điều kiện để được cấp bằng độc quyền sáng chế và có cùng ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn sớm nhất thì bằng độc quyền sáng chế chỉ được cấp cho một đơn trong số các đơn đó theo thỏa thuận của tất cả những người nộp đơn. Nếu không đạt được thỏa thuận, tất cả các đơn này sẽ bị từ chối cấp bằng sáng chế.

Theo đó, người nộp đơn nên nộp đơn đăng ký sáng chế càng sớm càng tốt sau khi tạo ra sáng chế và không nên công bố sáng chế trước khi nộp đơn.

Đơn đăng ký sáng chế nộp cho Cục SHTT phải được thẩm định hình thức để đánh giá tính hợp lệ.

Thời hạn thẩm định hình thức đơn là một (01) tháng kể từ ngày nộp đơn. Trong quá trình thẩm định hình thức, nếu người nộp đơn chủ động sửa đổi, bổ sung tài liệu hoặc theo yêu cầu của Cục SHTT thì thời hạn thẩm định hình thức có thể được kéo dài trong khoảng thời gian thực hiện việc sửa đổi hoặc bổ sung.

Trước khi kết thúc thời hạn trên, Cục SHTT hoàn thành việc thẩm định hình thức đơn và gửi thông báo kết quả thẩm định hình thức cho người nộp đơn.

  • Đối với đơn hợp lệ, Cục SHTT gửi cho người nộp đơn Quyết định chấp nhận đơn hợp lệ.
  • Đối với đơn không đáp ứng yêu cầu về hình thức, Cục SHTT ra thông báo dự định từ chối chấp nhận đơn hợp lệ, nêu rõ lý do và ấn định thời hạn để người nộp đơn sửa chữa thiếu sót hoặc có ý kiến phản đối dự định từ chối và ấn định thời hạn 02 tháng, kể từ ngày ra thông báo để người nộp đơn đưa ra ý kiến hoặc sửa chữa thiếu sót.

Nếu người nộp đơn nhận được thông báo dự định từ chối chấp nhận đơn từ Cục SHTT nhưng người nộp đơn không sửa chữa thiếu sót hoặc sửa chữa thiếu sót không đạt yêu cầu hoặc không có ý kiến phản đối hoặc ý kiến phản đối không xác đáng trong thời hạn đã ấn định, Cục SHTT sẽ ra quyết định từ chối chấp nhận đơn hợp lệ. Nếu chủ đơn không đồng ý với quyết định nêu trên của Cục SHTT, chủ đơn có thể thực hiện việc khiếu nại đối với quyết định này theo các thủ tục khiếu nại.

Đơn đăng ký sáng chế được chấp nhận là hợp lệ sẽ được Cục SHTT công bố trên Công báo sở hữu công nghiệp trong vòng (19) tháng kể từ ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn, trong trường hợp đơn không có ngày ưu tiên hoặc trong thời hạn hai (2) tháng kể từ ngày được chấp nhận là đơn hợp lệ, tùy vào ngày nào muộn hơn. Người nộp đơn phải trả phí cho việc công bố.

Đơn đăng ký sáng chế theo Hiệp ước hợp tác sáng chế (PCT) sẽ được công bố trong vòng hai (2) tháng kể từ ngày đơn được chấp nhận là đơn hợp lệ sau khi đơn đã vào giai đoạn quốc gia.

Đơn sáng chế có yêu cầu công bố sớm hơn sẽ được công bố trong thời hạn hai (02) tháng kể từ ngày Cục SHTT nhận được yêu cầu đó hoặc ngày đơn được chấp nhận là đơn hợp lệ, tùy vào ngày nào muộn hơn.

Việc thẩm định nội dung đơn sẽ chỉ được thực hiện đối với trường hợp người nộp đơn hoặc bên thứ ba đã nộp yêu cầu thẩm định và nộp lệ phí thẩm định trong vòng 42 tháng đối với đơn sáng chế hoặc trong vòng 36 tháng đối với đơn đăng ký giải pháp hữu ích, kể từ ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên, nếu có.

Trường hợp không có yêu cầu thẩm định nội dung nộp trong thời hạn quy định thì đơn đăng ký sáng chế/giải pháp hữu ích được coi như đã rút tại thời điểm kết thúc thời hạn đó.

Mục đích của việc thẩm định nội dung đơn sáng chế là để đánh giá khả năng được bảo hộ của đối tượng yêu cầu bảo hộ trong đơn theo các yêu cầu và phạm vi bảo hộ tương ứng. Việc thẩm định nội dung sẽ được thẩm định viên của Cục SHTT tiến hành trong vòng 18 tháng kể từ ngày yêu cầu thẩm định nội dung hoặc ngày công bố đơn, tùy vào ngày nào muộn hơn.

Nếu trong quá trình thẩm định nội dung đơn, người nộp đơn chủ động hoặc theo yêu cầu của Cục SHTT tiến hành việc sửa đổi đơn, bổ sung tài liệu hoặc giải trình thì thời hạn thẩm định nội dung được kéo dài thêm tương ứng với thời hạn dành cho người nộp đơn thực hiện các công việc đó.

Chậm nhất là vào ngày kết thúc thời hạn thẩm định nội dung đơn, Cục SHTT gửi cho người nộp đơn một trong các thông báo sau đây:

  • Nếu đối tượng nêu trong đơn không đáp ứng điều kiện bảo hộ, Cục SHTT ra thông báo kết quả thẩm định nội dung, trong đó nêu rõ dự định từ chối cấp văn bằng bảo hộ, lý do từ chối, có thể hướng dẫn việc sửa đổi phạm vi (khối lượng) bảo hộ và ấn định thời hạn 03 tháng kể từ ngày ra thông báo để người nộp đơn có ý kiến (người nộp đơn có thể nộp công văn xin gia hạn trả lời một lần bằng đúng thời hạn đã được ấn định trong thông báo của Cục SHTT);
  • Nếu đối tượng nêu trong đơn đáp ứng các điều kiện bảo hộ nhưng đơn còn có thiếu sót thì Cục SHTT ra thông báo kết quả thẩm định nội dung, trong đó nêu rõ dự định từ chối cấp văn bằng bảo hộ, thiếu sót của đơn và ấn định thời hạn 03 tháng kể từ ngày ra thông báo để người nộp đơn có ý kiến giải trình hoặc sửa chữa thiếu sót (người nộp đơn có thể nộp công văn xin gia hạn trả lời một lần bằng đúng thời hạn đã được ấn định trong thông báo của Cục SHTT);
  • Nếu đối tượng nêu trong đơn đáp ứng điều kiện bảo hộ hoặc người nộp đơn đã sửa chữa thiếu sót đạt yêu cầu hoặc có ý kiến giải trình xác đáng trong thời hạn quy định, Cục SHTT ra thông báo về dự định cấp văn bằng bảo hộ và yêu cầu người nộp đơn nộp lệ phí cấp văn bằng bảo hộ.

Nếu người nộp đơn nhận được thông báo dự định từ chối đơn nhưng người nộp đơn không sửa chữa thiếu sót hoặc sửa chữa thiếu sót không đạt yêu cầu hoặc không có ý kiến phản đối hoặc ý kiến phản đối không xác đáng đối với dự định từ chối trong thời hạn ấn định thì Cục SHTT sẽ ra Quyết định từ chối cấp văn bằng bảo hộ.

Trong trường hợp người nộp đơn không đồng ý với Quyết định từ chối cấp văn bằng bảo hộ của thẩm định viên, người nộp đơn có quyền khiếu nại quyết định này với Cục trưởng Cục SHTT hoặc khởi kiện ra Tòa án.

Khi đối tượng nêu trong đơn đáp ứng điều kiện bảo hộ, Cục SHTT sẽ ra thông báo dự định cấp bằng và nêu rõ các loại phí mà người nộp đơn cần thanh toán bao gồm lệ phí cấp văn bằng bảo hộ, phí công bố, phí đăng bạ và phí duy trì năm thứ nhất.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày người nộp đơn nộp đủ và đúng hạn các khoản phí, lệ phí, Cục SHTT sẽ tiến hành thủ tục cấp Bằng độc quyền sáng chế.

Bằng độc quyền sẽ được ghi nhận vào Sổ đăng ký quốc gia về sáng chế và quyết định cấp bằng sẽ được Cục SHTT công bố trên Công báo sở hữu công nghiệp trong thời hạn hai (02) tháng kể từ ngày cấp và sau khi người nộp đơn nộp lệ phí công bố.

Có thể tra cứu thông tin về các đơn sáng chế ở Việt Nam tại cơ sở dữ liệu trực tuyến của Cục SHTT Việt Nam là:

http://iplib.noip.gov.vn

Theo quy định và luật pháp Việt Nam, bản dịch tiếng Việt của bản mô tả sáng chế phải được nộp tại thời điểm nộp đơn.

Theo Điều 86.1b, Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005 sửa đổi bổ sung 2009, 2019, 2022 (Luật SHTT Việt Nam), tổ chức, cá nhân đã đầu tư tài chính, cơ sở vật chất cho tác giả sáng chế dưới hình thức giao việc, thuê việc có quyền nộp đơn đăng ký sáng chế đối với sáng chế do tác giả sáng chế tạo ra trong khi làm việc, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

Do đó, người sử dụng lao động sẽ có quyền sở hữu văn bằng bảo hộ cho những sáng chế đó và được trao độc quyền đối với sáng chế đã được cấp bằng, trong khi người lao động được hưởng một số quyền nhân thân đối với sáng chế ngoài tiền thù lao. Ví dụ, người lao động-tác giả sáng chế sẽ được đứng tên trong các bằng sáng chế có liên quan cũng như trong bất kỳ tài liệu nào mà được công bố hoặc giới thiệu. Người lao động còn được hưởng một số thù lao theo quy định của pháp luật, trong đó được quy định là ít nhất 10% lợi ích thu được từ việc sử dụng sáng chế và 15% số tiền được hưởng từ mỗi lần cấp giấy phép sử dụng sáng chế, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác (Điều 135.2, Luật SHTT Việt Nam).

Thông thường chỉ yêu cầu giấy ủy quyền. Tuy nhiên, đối với đơn đăng ký sáng chế không có nguồn gốc là đơn PCT và có yêu cầu quyền ưu tiên theo Công ước Paris, thì cần nộp thêm bản sao có chứng thực của tài liệu ưu tiên.

Giấy ủy quyền chỉ cần được người đại diện hợp pháp ký tên là đủ, không cần phải chứng thực hay hợp pháp hóa lãnh sự.

Bản sao chứng thực của tài liệu ưu tiên là bản sao của đơn liên quan hợp lệ được nộp ban đầu và đã được chứng thực (cho mục đích yêu cầu quyền ưu tiên) bởi cơ quan sáng chế ở nước ưu tiên.

Vui lòng cung cấp cho chúng tôi giấy ủy quyền gốc (và bản sao có chứng thực của tài liệu ưu tiên, nếu được yêu cầu) ở dạng bản cứng. Các tài liệu khác có thể được gửi cho chúng tôi ở định dạng số (file mềm).

a. Sau khi nộp hồ sơ cho Cục SHTT cần phải làm gì tiếp theo? Chờ thẩm định hình thức?

Đúng. Đối với các đơn không có nguồn gốc từ đơn PCT, việc thẩm định hình thức sẽ được tiến hành ngay sau khi đơn được nộp cho Cục SHTT. Thủ tục này thông thường kéo dài 01-02 tháng kể từ ngày nộp đơn. Đối với đơn có nguồn gốc từ đơn PCT, thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng thứ 32 sau thời hạn 31 tháng để vào pha quốc gia của Việt Nam.

b. Mỗi bước có yêu cầu gì không? Chẳng hạn như yêu cầu về công bố hay thẩm định nội dung hay bất cứ yêu cầu gì?

Không có yêu cầu về công bố. Việc công bố đơn được tự động thực hiện trong vòng 02 tháng kể từ ngày đơn được chính thức chấp nhận về mặt hình thức (đối với đơn sáng chế có nguồn gốc từ đơn PCT) hoặc trong tháng thứ 19 kể từ ngày ưu tiên (đối với đơn sáng chế không có nguồn gốc từ đơn PCT). Trong trường hợp của đơn sáng chế không có nguồn gốc từ đơn PCT, người nộp đơn có thể nộp công văn yêu cầu công bố sớm tới Cục SHTT để đơn được công bố sớm (tức là được công bố trong thời hạn 02 tháng kể từ ngày đơn được chấp nhận hình thức).

Yêu cầu thẩm định nội dung phải được nộp cho Cục SHTT, tùy chọn là, ngay tại thời điểm nộp đơn hoặc trong thời hạn 42 tháng đối với đơn sáng chế (hoặc 36 tháng đối với đơn giải pháp hữu ích) tính từ ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên, nếu có.

Ngoài ra, người nộp đơn có thể nộp các yêu cầu sửa đổi đơn, hoặc phản đối đơn bất kỳ khác hoặc khiếu nại bất kỳ quyết định nào của Cục SHTT.

Các tài liệu PCT (chẳng hạn như báo cáo tra cứu quốc tế hoặc báo cáo thẩm định sơ bộ quốc tế) không phải là tài liệu bắt buộc. Tuy nhiên, các tài liệu này nên được nộp cho Cục SHTT để thuận tiện cho việc thẩm định đơn trong giai đoạn quốc gia.

Có phải dịch ISR sang tiếng Việt trước khi nộp hay không?

Không. ISR không cần phải dịch sang tiếng Việt.

Cục SHTT có sử dụng kết quả ISR này cho quyết định của mình không?

Cục SHTT sử dụng kết quả ISR để tham khảo. Quyết định của Cục SHTT thường dựa trên báo cáo thẩm định sơ bộ quốc tế.

ISR có giúp đẩy nhanh quá trình thẩm định của Cục SHTT hay không?

Không. ISR không làm đẩy nhanh quá trình thẩm định.

Không có thời gian ân hạn đối với việc nộp đơn sáng chế tại Việt Nam.

Nếu quốc gia mà đơn ban đầu được nộp là thành viên của Công ước Paris, thì chủ đơn có thể nộp đơn sáng chế đó ở Việt Nam và xin hưởng quyền ưu tiên từ đơn ban đầu đó. Thời hạn để yêu cầu xin hưởng quyền ưu tiên đối với đơn sáng chế/giải pháp hữu ích là 12 tháng tính từ ngày ưu tiên.

Quyền ưu tiên mang lại những lợi ích sau:

– Tránh được việc bị mất tính mới do sự bộc lộ của đơn ban đầu.

– Tăng khả năng được bảo hộ. Vì Việt Nam áp dụng nguyên tắc nộp đơn đầu tiên, tức là trong trường hợp có nhiều đơn đăng ký cho cùng một sáng chế, đơn trong số các đơn đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm nhất sẽ được bảo hộ. Điều này rõ ràng là có lợi cho đơn yêu cầu hưởng quyền ưu tiên vì ngày ưu tiên luôn sớm hơn ngày nộp đơn.

Việc thanh toán (bao gồm phí nhà nước và phí dịch vụ) được thực hiện theo các giai đoạn của quá trình theo đuổi đơn, bao gồm:

– Giai đoạn nộp đơn: Các phí nộp đơn

– Giai đoạn thẩm định đơn: Phí sửa đổi, phí phúc đáp…, nếu có

– Giai đoạn cấp bằng: Phí cấp bằng và phí duy trì năm thứ nhất (nếu đơn đáp ứng các tiêu chuẩn bảo hộ)

– Giai sau cấp bằng: Phí duy trì hàng năm (từ năm duy trì thứ 2 đến năm bằng hết hạn hiệu lực).

Thời hạn nộp phí duy trì năm thứ 2 và các năm tiếp theo trùng với ngày cấp bằng, sẽ được trả hàng năm trong vòng 6 tháng trước thời hạn nộp phí duy trì. Việc nộp phí duy trì này có thể được nộp muộn trong vòng 6 tháng kể từ ngày đến hạn, và phải nộp phí nộp muộn là 10% lệ phí duy trì hiệu lực văn bằng bảo hộ cho mỗi điểm độc lập trên mỗi tháng nộp muộn.

Cục SHTT sẽ không thông báo cho chủ bằng sáng chế cũng như công ty chúng tôi về việc thanh toán duy trì. Chúng tôi sẽ tự theo dõi thời hạn. Chúng tôi có phần mềm quản lý và đặt cơ chế nhắc thời hạn tự động để kịp thời thông báo cho chủ bằng sáng chế là các khách hàng của chúng tôi về thời hạn duy trì.

Cục SHTT không thu phí duy trì hiệu lực một lần cho tất cả các năm cần duy trì. Thay vào đó, phí duy trì thường được nộp cho Cục SHTT theo từng năm.

Tách đơn sáng chế không được định nghĩa trong Luật SHTT Việt Nam. Tuy nhiên, thủ tục tách đơn có thể được hiểu đơn giản là từ đơn đăng ký ban đầu, chủ đơn chủ động tách hoặc theo yêu cầu của Cục Sở hữu trí tuệ yêu cầu phải tách đơn sẽ tách một hoặc một số giải pháp kỹ thuật trong đơn đăng ký sáng chế sang một hoặc nhiều đơn mới, gọi là đơn tách.

Theo Quy định về Sáng chế Việt Nam, đơn tách có thể được nộp vào bất kỳ thời điểm nào trong quá trình theo đuổi đơn sáng chế (từ khi nộp đơn đến khi cấp bằng độc quyền) nhưng phải nộp trước ngày có Quyết định cấp Bằng độc quyền/Quyết định từ chối cấp Bằng độc quyền. Lưu ý, việc tách đơn không thể được thực hiện trong giai đoạn khiếu nại.

Không có dạng đơn tiếp tục một phần ở Việt Nam.

Các nguyên tắc áp dụng cho việc nộp đơn tách sáng chế tách như sau:

  • Đơn tách phải mang số đơn mới và được hưởng ngày nộp đơn hoặc (các) ngày ưu tiên (nếu có) của đơn gốc; và được công bố sau khi có quyết định chấp nhận hình thức đơn.
  • Đơn tách không được mở rộng, vượt quá phạm vi (khối lượng) bảo hộ hoặc các nội dung đã bộc lộ trong phần mô tả của đơn gốc và không được làm thay đổi bản chất của đối tượng nêu trong đơn gốc.
  • Đối với mỗi đơn tách, người nộp đơn phải nộp lệ phí nộp đơn và mọi khoản phí, lệ phí cho các thủ tục được thực hiện độc lập với đơn ban đầu, nhưng không phải nộp phí thẩm định yêu cầu hưởng quyền ưu tiên. Đơn tách được thẩm định về hình thức và tiếp tục được xử lý theo các thủ tục chưa được hoàn tất đối với đơn ban đầu.
  • Đơn gốc (sau khi tách) được tiếp tục xử lý theo thủ tục sửa đổi đơn. Trong khi đó, thời hạn thẩm định nội dung đơn tách được thực hiện như thời hạn thẩm định đơn thông thường.

Có. Chủ đơn có thể chủ động tách đơn nối tiếp hoặc theo yêu cầu của Cục SHTT trước khi Cục SHTT ra quyết định từ chối đơn hoặc quyết định cấp bằng độc quyền sáng chế. Quy trình và thủ tục cho việc nộp đơn tách như vậy cũng giống như quy trình và thủ tục nộp đơn tách đã nêu ở trên.

Đơn sáng chế được coi là có tính thống nhất nếu:

a. Chỉ yêu cầu bảo hộ một đối tượng; hoặc,

b. Yêu cầu bảo hộ cho một nhóm sáng chế có mối liên hệ chặt chẽ về kỹ thuật nhằm thực hiện một ý đồ sáng tạo chung duy nhất và thuộc các trường hợp sau:

  1. Một đối tượng dùng để tạo ra (sản xuất, chế tạo, điều chế) đối tượng kia;
  2. Một đối tượng dùng để thực hiện đối tượng kia;
  3. Một đối tượng dùng để sử dụng đối tượng kia;
  4. Các đối tượng thuộc cùng một dạng, có cùng chức năng để bảo đảm thu được cùng một kết quả.

Người nộp đơn có thể đưa ra ý kiến phản đối các từ chối về tính thống nhất bằng cách cung cấp các lập luận chứng minh rằng đơn đáp ứng các yêu cầu về sự thống nhất đã nêu ở trên. Theo cách khác, để khắc phục sự từ chối về tính thống nhất, người nộp đơn có thể nộp đơn tách từ đơn gốc.

Người nộp đơn có thể nộp sửa đổi, bổ sung bất kỳ trong quá trình thẩm định đơn nhưng phải trước khi Cục SHTT ra quyết định từ chối đơn hoặc quyết định cấp bằng độc quyền. Lưu ý, việc sửa đổi đơn không được chấp nhận trong giai đoạn khiếu nại.

Mọi sửa đổi không được phép mở rộng, vượt quá phạm vi (khối lượng) bảo hộ hoặc các nội dung đã bộc lộ trong phần mô tả của đơn ban đầu và không được làm thay đổi bản chất của đối tượng nêu trong đơn gốc. Mọi nội dung mới, nếu được các thẩm định viên của Cục SHTT phát hiện hoặc xác định sau khi quá trình thẩm định nội dung sửa đổi đó, sẽ bị từ chối.

Có, với điều kiện là việc bổ sung đó không vượt quá phạm vi của đơn đã nộp ban đầu.

Trong quá trình thẩm định, nếu một Quyết định, chẳng hạn như quyết định từ chối đơn, quyết định từ chối cấp, quyết định cấp văn bằng bảo hộ… được ban hành bởi Cục SHTT và người có quyền khiếu nại không đồng ý với quyết định đó, người nộp đơn có quyền nộp khiếu nại các quyết định đó theo các thủ tục khiếu nại.

Cụ thể, người nộp đơn và mọi tổ chức, cá nhân có quyền, lợi ích liên quan trực tiếp đến quyết định được ban hành bởi Cục SHTT có quyền khiếu nại đến Cục trưởng Cục SHTT hoặc khởi kiện ra Tòa án nếu không đồng ý với quyết định này trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày người có quyền khiếu nại nhận được hoặc biết được quyết định này.

Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại về quyết định từ chối, Cục SHTT ra thông báo về việc chấp nhận hoặc từ chối khiếu nại, trong đó nêu rõ lý do từ chối.

Khi hết thời hạn giải quyết khiếu nại về quyết định liên quan đến đơn đăng ký sáng chế (khiếu nại lần 1), nếu khiếu nại không được giải quyết hoặc người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Cục SHTT, người khiếu nại, người có quyền, lợi ích liên quan trực tiếp đến quyết định có quyền khiếu nại tiếp (khiếu nại lần 2) đến Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ hoặc khởi kiện ra Tòa án trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần 1 mà đến thời hạn đó mà khiếu nại lần 1 không được giải quyết hoặc kể từ ngày người có quyền khiếu nại nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại lần 1. Khi hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần 2 nêu trên hoặc người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ thì người khiếu nại có quyền khởi kiện ra Tòa án.

Các nội dung sau không thuộc đối tượng khiếu nại:

  • Yêu cầu sửa đổi, bổ sung, hoặc tách đơn;
  • Các dữ kiện/chi tiết mới chưa được nộp trong quá trình thẩm định mà có thể thay đổi thông báo/quyết định đã kháng cáo;
  • Trong trường hợp người khiếu nại không phải là người nộp đơn, và có những tình tiết mới không thuộc trách nhiệm của Cục SHTT trong quá trình thẩm định, trong trường hợp này, người khiếu nại có quyền yêu cầu thẩm định bổ sung.

Các đối tượng có tên “chương trình máy tính”, “phần mềm máy tính”, “sản phẩm chương trình/phần mềm máy tính” hoặc “tín hiệu mang chương trình” và bất kỳ từ/cách diễn đạt tương tự hoặc tương đương nào đều không được chấp nhận. Sáng chế phần mềm/chương trình máy tính có thể được cấp bằng sáng chế dưới dạng, ví dụ, phương pháp vận hành một thiết bị thông thường, thiết bị được cài đặt để thực hiện phương pháp đó, phương tiện ghi (hoặc vật ghi) chứa chương trình để thực hiện phương pháp đó.

Có thể xem xét nộp đơn đăng ký bảo hộ cho phần mềm/chương trình máy tính tại Việt Nam dưới dạng “bản quyền”. Theo cách khác, nếu chủ sở hữu vẫn muốn bảo hộ phần mềm/chương trình máy tính đó dưới dạng “sáng chế”, có thể viết lại tên đối tượng bảo hộ, ví dụ, thành “phương tiện có thể đọc được trên máy tính mà lưu trữ chương trình máy tính” trong bản mô tả để đáp ứng các yêu cầu về sáng chế của Việt Nam.